Pháp tổ chức hội thảo về biển Đông: “Đường lưỡi bò” không có cơ sở pháp lý

TT - Ngày 16-10-2012, tại Paris đã diễn ra hội thảo về “Biển Đông - vùng xung đột mới” do Viện Quan hệ quốc tế và chiến lược (IRIS) và Quỹ Gabriel Péri, một tổ chức chuyên nghiên cứu chính trị có uy tín tại Pháp, tổ chức. Hội thảo đã thu hút đông đảo các chuyên gia hàng đầu của Pháp và châu Âu về Luật biển quốc tế và địa chính trị.

>> Không lùi bước trong vấn đề biển Đông

Mở đầu hội thảo, nhà nghiên cứu Patrice Jorland, một chuyên gia kỳ cựu về Đông Nam Á, tuyên bố: “Sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng xung đột trên biển Đông chỉ liên quan đến các nước trong khu vực. Đó là một xung đột mang tầm vóc thế giới”. Ông Christian Lechervy, cố vấn đặc biệt về các vấn đề chiến lược ở châu Á của Tổng thống Pháp François Hollande, phụ họa: “Vấn đề biển Đông không chỉ giới hạn ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Nó còn bao gồm cả các quần đảo Pratas, bãi cạn Scarborough, bãi Macclesfield và các eo biển”.

“Đường lưỡi bò”: Trung Quốc chẳng có bằng chứng nào trong tay!

"Trung Quốc không muốn có tòa quốc tế phân xử tranh chấp trên biển Đông"

Giáo sư Chemillier-Gendreau

Xung đột ở biển Đông đã âm ỉ từ lâu, nhưng trở nên căng thẳng từ năm 2009. Giải thích sự leo thang căng thẳng này, chuyên gia Cyrille P. Coutansais, phó phòng luật biển của Bộ tham mưu Hải quân Pháp, nhận định: “Vùng biển và đất liền ở khu vực quanh biển Đông giờ đây đã trở thành mỏ vàng kinh tế. Ở đó, các nước có thể khai thác đánh bắt hải sản, có các mỏ khoáng sản quý hiếm như đất hiếm, khí đốt. Đó là chưa kể nguồn lợi sinh học từ hệ động thực vật biển. Do nguồn tài nguyên trên mặt đất dần cạn kiệt nên các quốc gia đang hướng về phía biển, nơi còn chưa được khai thác bao nhiêu. Vì vậy, để vùng đất vàng không rơi vào tay kẻ mạnh thì phải có luật và công ước quy định luật chơi”. Ông Coutansais muốn đề cập đến Công ước Geneva 1958 và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Ông nhấn mạnh: “Chỉ có hành xử theo luật quốc tế mới có thể giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, bền vững và được tất cả các bên tuân thủ”.

Như một cách đề dẫn cho cuộc tranh luận, nhà nghiên cứu Patrice Jorland, cộng tác viên tạp chí Nghiên Cứu Quốc Tế của Pháp, nhấn mạnh cách gọi tên biển Đông theo cách phương Tây hiện nay là “biển Nam Trung Hoa” hoặc “biển Trung Hoa” đã tạo ra sự hiểu lầm và là nguồn gốc gây xung đột. Cách gọi tên đó do các nhà hàng hải và các nhà vẽ bản đồ châu Âu đặt ra từ bao thế kỷ trước trong các chuyến du hành để khám phá các vùng đất mới. “Đó là cách gọi nhập nhằng. Cái tên đó không phù hợp với tình hình địa - chính trị hiện nay và nó tạo ra cảm tưởng vùng biển này là của Trung Quốc. Lối nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm. Bởi lẽ cái tên gọi không thể tạo ra chủ quyền được” - ông Patrice Jorland nhấn mạnh. Ai cũng hiểu điều đó, có lẽ chỉ riêng Trung Quốc là không hiểu. Chính vì thế, năm 2009 Trung Quốc đã trưng ra trước Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ về “đường lưỡi bò”.

Giáo sư luật Erik Franckx thuộc ĐH Vrije (Bỉ) nhấn mạnh tấm bản đồ đường lưỡi bò này “trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể là bằng chứng hợp pháp cho chủ quyền”. Ông lý giải: “Cơ quan chuyên trách của Liên Hiệp Quốc về vấn đề này là Tổ chức Thủy văn quốc tế (IHO) không tìm thấy biểu tượng khoa học và thủy văn nào trên tấm bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc. Theo IHO cũng như theo quan điểm cá nhân của tôi, bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc là mơ hồ, thiếu tính chính xác kỹ thuật và bởi vậy hoàn toàn không có cơ sở pháp lý”.

Giáo sư luật David Scott thuộc ĐH Brunel (Anh) cũng cho rằng: “Khi trình bản đồ đường lưỡi bò lên Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc muốn hợp pháp hóa và chính danh hóa vùng biển mình đòi hỏi. Nhưng cùng lúc Trung Quốc lại từ chối đưa ra các bằng chứng kỹ thuật cho tấm bản đồ, từ chối tuân thủ UNCLOS và cũng không muốn đưa các vấn đề tranh chấp với các nước láng giềng ra một định chế tài phán quốc tế nào”.

Đồng tình với ý kiến các chuyên gia luật khác tại hội thảo khi vạch rõ thái độ không nhất quán của Trung Quốc trước quốc tế và trong lĩnh vực luật pháp, giáo sư David Scott chia sẻ: “Khi trưng ra bản đồ đường lưỡi bò trước Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc muốn vùng biển này được công nhận chính thức và mang tính hợp pháp. Thế nhưng, cùng lúc Trung Quốc lại từ chối trưng ra các bằng chứng kỹ thuật cho tấm bản đồ mà họ trưng ra, lại từ chối tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 và cũng không muốn đưa các vấn đề tranh chấp với các nước láng giềng ra một định chế tài phán quốc tế nào”.

Giáo sư luật Monique Chemillier-Gendreau thuộc ĐH Paris-Diderot (Pháp) cũng đã kể lại cuộc gặp tại Bắc Kinh cách đây ba năm với các quan chức cấp cao của Trung Quốc. Họ khẳng định với bà điều này: “Chúng tôi sẽ không bao giờ cung cấp bằng chứng cụ thể (về bản đồ đường lưỡi bò) và sẽ chẳng bao giờ ra tòa gì cả. Vùng biển ấy là của chúng tôi, tại sao lại phải chứng minh chứng tỏ gì chứ?”.

Giáo sư Chemillier-Gendreau thừa nhận lúc đó bà bị “sốc” trước thái độ bất chấp luật pháp và bất chấp công ước mà chính Trung Quốc đã đặt bút ký vào đó. “Trung Quốc không thể cung cấp chứng cứ khoa học cho cái mà họ đã đệ trình bởi họ chẳng có gì trong tay” - bà nhấn mạnh. Trong trường hợp đòi chủ quyền lãnh thổ, quyền đòi hỏi, được áp dụng đến tận ngày nay, phải dựa trên điều mà người ta gọi là “pháp luật theo tập quán”. Trung Quốc chỉ đề cập đến các quần đảo trên biển Đông trong tài liệu từ năm 1930. Trong khi các vua chúa An Nam đã lập địa bạ về Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17. Điều đó có nghĩa trên phương diện luật pháp và chứng cứ kiểm chứng được, các tài liệu do VN đưa ra có thời gian lâu hơn. Chính vì vậy, Trung Quốc không muốn có tòa quốc tế nào phân xử tranh chấp trên biển Đông”.

Sách lược “chuyện đã rồi!” của Trung Quốc và giải pháp đối phó

Giáo sư Chemillier-Gendreau và chuyên gia Coutansais cho rằng Trung Quốc đang thực thi sách lược “tôi có mặt, tôi ở lại” hay “chuyện đã rồi theo từng bước một”. Sách lược này đã xảy ra với một số quốc gia khác vốn mệt mỏi trong chuyện tranh chấp nên đành sẵn sàng ký kết các thỏa thuận song phương có lợi cho Trung Quốc. Giáo sư Scott nhận định: “Trung Quốc nghĩ rằng các quốc gia có liên quan đến tranh chấp sẽ mệt mỏi về kinh tế và tài chính do cố chạy theo hiện đại hóa quân đội, nên cuối cùng đành phó mặc cho chuyện gì xảy đến thì đến”.

Cách giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương hiện là vũ khí “bí mật” của Trung Quốc. Do vậy, giáo sư Franckx cho rằng “nếu các quốc gia như Philippines, VN và các quốc gia khác muốn bảo vệ lãnh thổ của mình thì phải cùng nhau đưa Trung Quốc ra các định chế tòa án quốc tế và xử lý các tranh chấp theo phương cách đa phương. Đàm phán song phương chỉ dẫn đến thua thiệt”. Các chuyên gia tại hội thảo cho rằng giải pháp bền vững và đúng đắn nhất là đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế La Haye.

Nhà nghiên cứu Coutansais đề xuất: “Các nước không cần phải chờ Trung Quốc có chấp nhận một trọng tài phân xử hay không. Chẳng hạn VN và Philippines cũng có những tranh chấp lãnh thổ và vùng lãnh thổ đó cũng bị Trung Quốc tranh chấp. Nếu VN và Philippines cùng đưa vấn đề ra một tòa án thì Trung Quốc cũng phải tham gia dù muốn hay không bởi họ có dính líu với tranh chấp họ đang đòi hỏi. Trong tình hình hiện nay, có lẽ đó là cách tiến hành tốt nhất”.

Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Pháp tham dự

Bất chấp cơn mưa thu lạnh lẽo và dai dẳng, bất chấp những tin tức thời sự nóng bỏng của cuộc khủng hoảng tài chính, của Trung Đông, phòng họp lớn của Trung tâm hội nghị nhà hóa học (quận 7, Paris) đã nhanh chóng đông nghẹt người trước giờ diễn ra hội thảo. Điểm sơ qua đã có thể nhận ra những nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao, chính trị gia, cố vấn của các tổ chức quốc tế, chuyên gia cấp cao của hải quân Pháp... Đặc biệt là có sự hiện diện của ông Christian Lechervy, cố vấn đặc biệt về các vấn đề chiến lược ở châu Á của Tổng thống Pháp François Hollande.

VÕ TRUNG DUNG (từ Paris)

Bài phát biểu của TBT Lê Duẩn về lũ phản động Bắc Kinh

Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc

Nói chung, sau khi ta đã thắng Mỹ thì không còn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn như vậy. Tôi không rõ bọn phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào bọn chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta như chúng vừa làm gần đây [vào đầu năm 1979]. Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh [Bắc Trung bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ vững chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất không gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng [Bắc bộ] vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp. Hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam thì sẽ chẳng có ai dám đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả thế giới còn lại sợ Mỹ…(2) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên, nhưng đó chỉ vì mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi chiến tranh chấm dứt [ở Triều Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông ta [có lẽ ám chỉ Chu Ân Lai như những đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng, nếu như Việt Nam tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ phải tự lo liệu lấy. Ông ta sẽ không giúp nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải ngừng đấu tranh.

Khi ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính Chu Ân Lai là người đã chia cắt nước ta ra làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Bắc và Nam như vậy, cũng chính ông ấy lại ép chúng ta không được đụng chạm gì đến miền Nam. Họ cấm ta vùng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm chúng ta sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông đã nói với Đảng ta rằng, chúng ta cần ép các đồng chí Lào chuyển giao ngay hai tỉnh đã giải phóng cho chính phủ Viên Chăn (3). Nếu không Mỹ sẽ tiêu diệt họ, một tình huống hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung Quốc]. Việt Nam lại phải làm việc ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề này]. Mao đã bắt ta phải làm như vậy và chúng ta cũng đành phải làm như vậy (4).

Rồi sau khi hai tỉnh giải phóng của Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn, bọn phản động Lào ngay lập tức bắt Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các đồng chí Lào có hai tiểu đoàn lúc ấy đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây]. Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải chấp nhận cho các bạn Lào phát động chiến tranh du kích. Tôi mời phía Trung Quốc đến để thảo luận việc này với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu các anh tiếp tục gây sức ép với Lào như thế thì lực lượng của họ sẽ tan rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được phép tiến hành đánh du kích”.

Trương Văn Thiên (5), người trước kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và có bí danh là Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các đồng chí, điều các đồng chí nói là đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn Lào ấy được đánh du kích”.

Tôi hỏi Trương Văn Thiên ngay lập tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí đã cho phép Lào tiến hành chiến tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho các đồng chí phải sợ hãi đến nỗi các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?”

Ông ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!”

Đó là điều Trương Văn Thiên đã nói. Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam khi ấy, [và] có mặt lúc đó cũng nghe thấy những điều vừa nói.

Ông ta đã đánh điện về Trung Quốc [báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê Duẩn và Trương Văn Thiên]. Mao trả lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể làm như vậy được [phát động chiến tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam nhất định phải trường kỳ mai phục!” Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không có Trung Quốc là hậu phương vững chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo họ, có phải không? (6)

Bút ký cá nhân của Lê Duẩn năm 1978: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam. Không thể khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”
Dẫu sao thì chúng ta vẫn không nhất trí. Ta bí mật tiến hành phát triển lực lượng của ta. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh miền Nam, ta đã ra lệnh tổ chức lực lượng quần chúng để chống chế độ này và giành lại chính quyền [từ tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để ý đến họ [Trung Quốc]. Khi cuộc đồng khởi giành chính quyền đã bắt đầu, chúng tôi sang Trung Quốc gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nói với tôi: “Các đồng chí, bây giờ sai lầm của các anh thành việc đã rồi, các anh chỉ nên đánh ở mức độ trung đội trở xuống.” Đấy là một kiểu ràng buộc mà họ muốn áp đặt lên ta.

Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ chỉ đánh ở mức trung đội trở xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta đã chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường lối mới. Ông ta nói rằng trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội [Trung Quốc] vào giúp ta làm đường. Mục đích chính của ông ấy là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này có thể đánh ta và từ đó bành trướng xuống Đông Nam Á. Không còn lý do nào khác. Chúng ta biết vậy nhưng phải chấp nhận [việc đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam]. Chuyện này thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu là họ đưa người không thôi, nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn dược. Tôi lại đành phải đồng ý.

Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của họ xấu xa tới chừng nào.

Sau khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng tiến công Mậu Thân 1968, buộc chúng phải xuống thang. Để đánh bại đế quốc Mỹ ta phải biết cách kéo địch xuống thang dần dần. Đó là chiến lược của ta. Chúng ta chiến đấu chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn hai trăm triệu người và họ từng thống trị thế giới. Nếu ta không thể bắt họ xuống thang dần từng bước, thì ta sẽ lúng túng và không thể tiêu diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho chúng tê liệt ý chí để buộc chúng đến bàn đàm phán và không cho phép chúng đưa thêm quân vào.

Khi đã đến lúc họ muốn đàm phán với chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói: “Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Mỹ được. Các anh phải kéo quân Mỹ vào miền Bắc mà đánh chúng”. Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó, khiến chúng ta hết sức bối rối. Đó hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những tình huống tương tự [với Trung Quốc] lại xảy ra.

Chúng ta đã quyết định rằng không thể làm theo cách đó được [về ý kiến của Hà Vĩ không nên đàm phán với Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã kéo Mỹ xuống thang để đánh bại chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên bố [với Mỹ]: “Nếu người không đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến người. Muốn mang bao nhiêu quân vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”. Trung Quốc, theo ý của họ, đã làm như vậy và ép ta làm theo.

Họ đã tích cực đổi chác với Mỹ và dùng ta làm con bài để mặc cả như thế đấy. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung Quốc để xúc tiến việc rút quân ở miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận việc này.

Trước khi Nixon đến Trung Quốc, [mục tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu đến tối đa sự thất bại của họ, đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi: “Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp tôi, chủ yếu là để thảo luận vấn đề Việt Nam, do đó tôi nhất định phải đến gặp đồng chí để bàn bạc.”

Tôi trả lời: “Thưa đồng chí, đồng chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí muốn, nhưng tôi vẫn không hiểu. Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là người Việt Nam. Việt Nam là đất nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không phải là của các đồng chí. Đồng chí không có quyền phát biểu [về công việc của Việt Nam], và đồng chí không có quyền thảo luận [những chuyện đó với Mỹ] (7). Hôm nay, thưa đồng chí, tôi nói riêng với đồng chí một điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói với Bộ Chính trị của chúng tôi, rằng các đồng chí đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng và vì vậy tôi cần phải nói:

Năm 1954, khi Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu Nghĩa. Bác Hồ đánh điện cho tôi, nói rằng tôi cần phải đi Nam để tổ chức lại [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về việc này] (8). Tôi đi xe thổ mộ xuôi Nam. Dọc đường đồng bào đổ ra chào đón tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến thắng. Thật đau lòng xiết bao! Nhìn đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và tàn sát đồng bào tôi một cách dã man.

Vào tới nơi, tôi lập tức đánh điện cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và không tập kết ra Bắc, để có thể tiếp tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu hơn. [Tôi nói với Chu Ân Lai]: “Thưa đồng chí, đồng chí đã gây ra những khó khăn cho chúng tôi như vậy đấy [muốn nói đến vai trò của ông ta trong việc chia cắt Việt Nam tại hội nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí có biết thế không?”

Chu Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong chuyện này [ám chỉ việc chia cắt Việt Nam tại Giơ ne vơ] (9). Sau khi Nixon đã đi thăm Trung Quốc, ông ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến đấu trong Nam.

Tuy nhiên tôi cũng nói ngay với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí. Chẳng bao lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai bên [Mỹ và Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm đánh ta mạnh hơn. Ông ấy [Châu] đã không phản đối quan điểm này là không có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e ngại một âm mưu bí mật giữa Mỹ và Trung Quốc]: “Không có chuyện đó đâu”. Dẫu sao họ cũng đã thảo luận đánh ta mạnh hơn như thế nào, kể cả ném bom bằng B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Vấn đề rõ ràng là như vậy.

Nếu Liên Xô và Trung Quốc không bất đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh chúng ta một cách tàn bạo như chúng đã làm. Chừng nào hai nước [Trung Quốc và Liên Xô] còn xung đột thì người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự phản đối của khối Xã hội chủ nghĩa thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có thể đoàn kết với cả hai nước Trung Quốc và Liên Xô, nhưng để làm việc này là hết sức khó khăn vì lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc rất nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng năm viện trợ cho ta nửa triệu tấn lương thực, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô la nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự như vậy. Nếu chúng ta không làm được điều đó [giữ gìn sự thống nhất và đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có thể hết sức nguy hiểm. Hàng năm tôi phải sang Trung Quốc hai lần để trình bày với họ [ban lãnh đạo Trung Quốc] về các diễn biến ở trong Nam. Còn với Liên Xô, tôi không cần phải nói gì cả [về tình hình miền Nam]. Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc với phía Trung Quốc, tôi phải nói rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh Mỹ. Tôi đã đi (sang đấy) một mình. Tôi phải tham dự vào những chuyện đó. Tôi phải sang Trung Quốc và bàn bạc với họ nhiều lần như vậy với mục đích chính là thắt chặt quan hệ song phương [Trung Quốc và Việt Nam]. Chính vào lúc đó Trung Quốc ép chúng ta phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm ta không được đi cùng với Liên Xô nữa (10).

Họ làm rất căng thẳng chuyện này. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh (11), đến nói với tôi: “Đồng chí, chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân dân tệ) một năm. Các anh không được nhận gì từ Liên Xô nữa.”

Tôi không chấp nhận như vậy. Tôi nói: “Không, chúng tôi nhất định phải đoàn kết và thống nhất với toàn phe Xã hội chủ nghĩa.” (12)

Năm 1963, khi Nikita Khơrútxốp có sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương lĩnh 25 điểm và mời Đảng ta đến và góp ý kiến.(13) Anh Trường Chinh và tôi cùng đi với một số anh em khác. Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng nghe ta chừng mười điểm gì đó, nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã hội chủ nghĩa” (14) thì họ không nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về văn bản của chính tôi. Tôi xin ý kiến các đồng chí nhưng tôi không chấp nhận điểm này của các đồng chí.”

Trước khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” (15) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!”

Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc này. Mao hỏi tôi:

- Lào có bao nhiêu cây số vuông?

Tôi trả lời:

- Khoảng 200 nghìn [cây số vuông].

- Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi]

- [Tôi đáp:] Gần ba triệu.

- [Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống đấy!

- [Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông?

- [Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn.

- Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi]

- Gần 40 triệu! [Tôi đáp]

- Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông mà có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ lấy thêm một ít người của chúng tôi đi xuống đấy nữa [Thái Lan]!

Đối với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: “Các đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải không?” Tôi đáp: “Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa, đúng không?” Tôi trả lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông. (16)) Ông có biết thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: “Đúng! Đúng!” Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp.

Trong những năm trước [về các vấn đề có thể nảy sinh từ mối đe dọa của Trung Quốc trong những thời kỳ đó], chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực chứ không phải chúng ta không chuẩn bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị thì tình hình vừa qua đã có thể rất nguy. Đó không phải là chuyện đơn giản. Mười năm trước tôi đã có mời anh em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có mâu thuẫn với nhau. Còn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên quân đội anh em chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này rất khó hiểu. Đúng là không dễ dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói cách khác được. Và tôi cũng không cho phép ai căn vặn mình. (17)

Khi tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một hội nghị 80 đảng [Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp đỡ Việt Nam mà còn dự định lên án Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao? Tại sao các anh lại làm như vậy?” Tôi đáp: “Tôi hoàn toàn không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm như vậy. Tuy nhiên, muốn là người theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đi dự hội nghị này thì Trung Quốc sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho chúng tôi. Xin các đồng chí hiểu cho.”

Ở Trung Quốc có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai đồng ý xây dựng cùng Liên Xô một mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến Liên Xô dự lễ Quốc khánh, tôi có được đọc một bức điện của Trung Quốc gửi Liên Xô nói rằng “nếu Liên Xô bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai sát cánh cùng Liên bang Xô viết.”(18) Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô – Trung được ký kết trước đây [tháng 2-1950]. Ngồi cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi ông ấy: “Trong bức điện mới đây gửi Liên Xô, các đồng chí đã đồng ý cùng với Liên Xô thành lập một mặt trận, nhưng tại sao các đồng chí lại không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có thể. Tôi đồng tình với quan điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [về Việt Nam]. Bành Chân (19) cũng đang ngồi đó, nói thêm: “Ý kiến này cực kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra thảo luận ở Thượng Hải, Mao nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến này. Các đồng chí đã thấy vấn đề phức tạp ra sao.

Mặc dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý thành lập một mặt trận và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông mà tôi hiểu [nhiều chuyện đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có thể rất nguy hiểm. Có lần ông ấy nói với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình để sống sót ở đây, dùng Lý Cường (20) để tích lũy và cung cấp viện trợ cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám chỉ Châu đã có thể dùng Lý Cường vào việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu rằng nếu không có Chu Ân Lai thì không thể có được sự viện trợ như vậy. Tôi thật biết ơn ông ta.

Tuy nhiên cũng không đúng, nếu nói rằng những người khác trong ban lãnh đạo Trung Quốc có cùng quan điểm với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều phương diện. Nhưng có thể nói rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc đại Hán và người muốn chiếm cả vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả mọi chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay Mao.

Cũng có thể nói như vậy về các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Chúng ta không biết trong tương lai mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao [sự thực là] họ đã tấn công ta. Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai việc mà giờ đây lại lật ngược hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta. Kết quả là ông ta lập tức bị những người khác coi là phần tử xét lại.

Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng (21), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã gặp đoàn đại biểu Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn đề lãnh thổ, gồm cả thảo luận về một số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước chúng ta nằm cạnh nhau. Có một số khu vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa được phân định rõ ràng. Cả hai phía chúng ta cần phải thành lập một ủy ban để xem xét vấn đề này. Thưa các đồng chí, xin hãy nhất trí với tôi [về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã đồng ý, nhưng vì vậy mà sau đó ông ta lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp mũ xét lại tức thời.

Nhưng bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra mình không phải là xét lại nên ông ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta đã bật đèn xanh cho họ tấn công Việt Nam.

Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người. Một số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh nhau với ai nữa mà lại vẫn duy trì một đội quân [thường trực] lớn như vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng chí sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như vậy chính là vì Trung Quốc [mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu như không có [sự đe dọa đó] thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không còn cần thiết nữa. Đã bị tấn công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rõ rằng] sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một đội quân lớn.

(B) [Ý nghĩa của chữ B này trong bản gốc không được rõ] – Từ cuối Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đều cho rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen đầm quốc tế. Chúng có thể xâm chiếm và đe dọa các nước khác trên thế giới. Mọi người, kể cả các cường quốc, đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ mà thôi.

Tôi hiểu được điều này nhờ cuộc đời hoạt động của mình đã dạy tôi như vậy. Người đầu tiên sợ [Mỹ] chính là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, cả Việt Nam và Lào, rằng: “Các anh phải lập tức chuyển giao ngay hai tỉnh giải phóng của Lào cho chính quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức nguy hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam.” Ông ta [Mao] nói: “Các anh không được làm như vậy. Miền Nam Việt Nam cần phải trường kỳ mai phục, có thể một đời người, năm đến mười đời, thậm chí hai mươi đời nữa. Các anh không thể đánh Mỹ. Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.” Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như vậy…

Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam sẽ không được giải phóng. Một nước chưa được giải phóng thì vẫn cứ là một nước phụ thuộc. Không có nước nào được độc lập nếu chỉ có một nửa nước được tự do. Đó là tình hình cho đến năm 1975, khi đất nước ta cuối cùng đã giành được hoàn toàn độc lập. Có độc lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là thứ tự do cho cả nước Việt Nam…

Ăng ghen đã từng nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung Quốc và cả ta nữa cũng nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau rất nhiều về nội dung [của chiến tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu chỉ vì anh có hàng triệu người mà anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc cũng nói về chiến tranh nhân dân nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là chủ yếu, và chiến tranh chia làm ba giai đoạn, lấy nông thôn bao vây thành thị, trong khi [chủ lực] vẫn lẩn trốn trong vùng rừng núi… Trung Quốc đã thiên về phòng ngự và rất yếu [trong Đại chiến Thế giới thứ hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống lại quân đội Nhật chỉ có khoảng 300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại Nhật. (22)

Tôi phải nhắc lại như vậy vì trước kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta nên một số anh em [ta] không hiểu. Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài giỏi. Nhưng họ cũng không tài giỏi lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm theo [sự cố vấn của Trung Quốc]. (23)

Năm 1952 tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên tôi ra nước ngoài. (24) Tôi đã đánh dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy rất nhiều chuyện lạ. Những vùng [đã từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân cư là 50 triệu người, nhưng không có thậm chí một người du kích…

Khi tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi:

- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không?

- Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên.

- Chú thấy những gì?

- Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không.

Tôi hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng dũng cảm là đặc tính cố hữu trong từng con người Việt Nam, và do vậy chúng ta chưa từng có chiến lược thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là một chiến sĩ.

Gần đây, họ [Trung Quốc] đem vài trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên phần lớn mặt trận, ta mới sử dụng dân quân du kích và bộ đội địa phương để đánh trả. Chúng ta không thiên về phòng ngự, và do vậy họ đã thất bại. Họ không thể tiêu diệt gọn một trung đội nào của Việt Nam, còn ta diệt gọn vài trung đoàn và vài chục tiểu đoàn của họ. Đạt được điều đó vì ta có chiến lược nghiêng về tấn công.

Đế quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức mạnh mà vẫn thua. Nhưng ở đây có một yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như vậy.

Việt Nam chống Mỹ và đánh chúng quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết rằng Mỹ là một nước rất lớn, có khả năng huy động một đội quân mười triệu người và dùng tất cả những vũ khí tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu một thời gian dài để kéo chúng xuống thang. Chúng ta là người có thể làm được như vậy; Trung Quốc thì không. Khi quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã ra lệnh đưa bộ đội vào ứng chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó tôi có sang Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc chiến đấu ở Quảng Trị] có lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời người chỉ có một [cơ hội], không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng chí đã làm”.

… Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng thẳng thắn hơn. Ông nói với tôi: “Nếu tôi được biết trước cách đánh mà các đồng chí đã sử dụng thì có lẽ chúng tôi không cần đến cuộc Trường chinh.” Vạn lý Trường chinh để làm gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh họ có một đội quân 300 nghìn người; và khi kết thúc họ chỉ còn lại có 30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu hao. Đó quả thật là ngu ngốc nếu làm theo cách ấy… [Tôi] nói như vậy để các đồng chí hiểu, chúng ta đã tiến xa hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta lại phải chiến đấu chống Trung Quốc, chúng ta nhất định thắng lợi… Dẫu sao, một sự thực là nếu như một nước khác [không phải Việt Nam] phải đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc họ có thể thắng như vậy [giống Việt Nam] được.

… Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ sẽ dám đánh ta. Nếu như hai nước đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa chắc rằng Mỹ sẽ dám đánh ta theo cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn bước ngay từ đầu. Họ có thể bỏ cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia vào chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía Mỹ lại được [Trung Quốc] thông báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt Nam mà không sợ gì cả. Đừng sợ [Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu người không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng đến người. Các anh có thể đưa bao nhiêu quân vào miền Nam Việt Nam cũng được. Điều đó tùy theo các anh.” (25)

… Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với một quốc gia lớn, một nước có những ý đồ bành trướng, mà nếu được thực hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng Việt Nam. Như vậy, ta phải gánh vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước. Dẫu sao, chúng ta không bao giờ thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình. Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này Việt Nam quyết tâm không cho chúng bành trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc lập của chính mình và đồng thời cũng là bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam quyết không để cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành trướng của họ. Cuộc chiến gần đây [với Trung Quốc] mới chỉ là một hiệp. Hiện nay họ vẫn đang ráo riết chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù sao đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng…

Tiến hành chiến tranh không phải là một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng một triệu quân để tiến hành chiến tranh chống nước khác kéo theo vô vàn khó khăn. Chỉ mới đây thôi, họ đem 500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta, mà họ không có đủ phương tiện vận tải để chuyên chở lương thực cho quân đội họ. Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới [Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có 600 ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân, thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa thì sẽ càng khó khăn. Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè lũ Hitler đã tấn công ác liệt như thế nào, mà khi tiến đến Leningrad chúng cũng không thể nào vào nổi. (Phải đối mặt) với những (làng mạc,) thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tấn công hiệu quả chống lại từng người cư dân. Thậm chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi làng xóm của chúng ta [trên biên giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương của ta là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được.

Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến. Ngưới ta cũng cần phải có một đội quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau khi cuộc chiến vừa qua chấm dứt, chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới, ta cần đưa thêm vài triệu người lên (các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu giặc đến từ phương Bắc, hậu phương trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực tiếp để bảo vệ Thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Ta sẽ đánh bằng nhiều cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn giáng cho địch một đòn quyết liệt khiến chúng choáng váng, trong khi tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta. Để làm được như vậy, mỗi người lính phải là một người lính thực sự, mỗi tiểu đội phải là một tiểu đội thực sự.

Vừa trải qua một trận chiến, chúng ta không được chủ quan. Chủ quan khinh địch là không đúng, nhưng thiếu tự tin thì cũng sai. Ta không chủ quan khinh địch nhưng ta cũng đồng thời tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của chúng ta. Ta cần phải có cả hai yếu tố đó.

Trung Quốc hiện đang có âm mưu tấn công ta nhằm bành trướng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay người ta không thể làm gì mà che đậy giấu giếm được. Trung Quốc vừa mới gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả thế giới đã đồng thanh hô lớn: “Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay không còn giống như thời xưa nữa. Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ [Trung Quốc]. Ngày nay cả thế giới sát cánh chặt chẽ bên nhau. Nhân loại hoàn toàn chưa bước vào giai đoạn Xã hội chủ nghĩa; thay vì thế bây giờ lại là thời mà mọi người đều mong muốn độc lập và tự do. [Thậm chí] trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở đó cũng mong muốn độc lập tự do. Cả loài người hiện nay là như vậy. Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy mọi người còn chưa biết rõ về những khái niệm này. Lời Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” là tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam là quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

Khi bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ Chính trị đã cùng thảo luận chuyện này để cân nhắc xem ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã biểu thị quyết tâm của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất định phải không sợ Mỹ. Tất cả đã đồng lòng. Trong khi tất cả đều nhất trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần không sợ Trung Quốc. Mọi người đều tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba cái (nước lớn) đó, ta có thể đánh Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như thế nào ở Bộ Chính trị trong thời gian đó.

Mặc dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo luận như vậy và mọi người đều nhất trí đồng lòng, sau đó lại có người đã nói lại với một đồng chí những điều tôi nói. Người đồng chí đó lại chất vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại sao anh Ba (26) lại nói rằng nếu chúng ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh ấy lại đặt vấn đề như vậy? (27)

Lúc đó anh Nguyễn Chí Thanh, một người thường được cho rằng là có cảm tình với Trung Quốc, đứng dậy nói: “Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị và Bác Hồ kính mến, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Cần phải nói như vậy [về việc cần phải không sợ Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã gây khó khăn cho chúng ta trong nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ không cho ta đánh…” (28)

Trong khi ta đang chiến đấu trong Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng tôi chỉ nên đánh từ mức trung đội trở xuống, và không được đánh ở mức độ lớn hơn. Ông ta [Đặng] nói: “Ở miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là đã phát động cuộc chiến, các anh chỉ được đánh từ cấp trung đội trở xuống, chứ không được đánh lớn hơn”. Đó là họ đã ép ta như thế nào.

Chúng ta không sợ ai cả. Ta không sợ bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta không sợ thậm chí các nước đàn anh. Ta cũng không sợ bạn bè ta. (29) Tất nhiên, chúng ta không sợ quân thù. Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những con người; chúng ta không phải sợ bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết rằng ta độc lập.

Chúng ta phải có một quân đội mạnh, bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt… Không thể nào khác được. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta là một nước nghèo.

Ta có một đội quân mạnh, nhưng việc đó không làm chúng ta yếu đi chút nào. Đối với ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta khó khăn hơn. Vì những lý do đó, để chống Trung Quốc chúng ta phải, trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn phải tự làm cho mình mạnh lên. Để đạt được điều đó, theo quan điểm của tôi, quân đội ta không thể là một đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp của nhà nước, mà còn phải là một đội quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ sẽ cầm chắc tay súng. Khi không có giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ là biểu tượng cao nhất và tốt nhất trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ. (30)

Hiện nay, quân đội ta đang gánh vác một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của đất nước, đồng thời bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc không thể thực hiện được thì đó chính là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm được. Việt Nam đã có năm chục triệu người. Việt Nam có Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng về phiá mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó.

… Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta sẽ thua Trung Quốc không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta phải duy trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không muốn sự hằn thù dân tộc. Tôi nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ tôi mang lòng hận thù đối với Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã đánh ta. Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết rằng trên đời này người đã từng bảo vệ Trung Quốc lại chính là tôi! Đúng như vậy đó. Tại sao thế? Bởi vì trong hội nghị ở Bucharest tháng 6 năm 1960, sáu mươi đảng đã phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có mình tôi là người đã bênh vực Trung Quốc. (31) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa, chúng ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không mang những mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một số lãnh đạo [Trung Quốc] thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi. Chúng ta không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm nhặt như vậy.

Tóm lại, hãy giữ cho tình hình trong vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi là cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng làm như vậy. Tôi tin chắc rằng trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm chí có thể một trăm năm, chủ nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì ta sẽ không còn vấn đề gì nữa. Nhưng nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

Bây giờ không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc rằng không có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường hợp vì các đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. (32) Nhưng đó không phải là trường hợp xảy ra với chúng ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (33) Chúng ta biết rằng họ sẽ đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta không bị bất ngờ [vì cuộc tấn công tháng giêng 1979 của Trung Quốc].

Ghi chú của Christopher E. Goscha:
1. Tài liệu này được dịch từ bản sao một số trích đoạn trong bản gốc. Nó được chép lại từ bản gốc lưu trữ trong Thư viện Quân đội, Hà Nội. Christopher E. Goscha, người dịch tài liệu này (ra tiếng Anh) đã được phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc đó. Văn bản là bài nói chuyện được cho là của “đồng chí B”. Nó có thể do chính đồng chí B viết, nhưng có nhiều khả năng hơn nó là bản đánh máy của một người nào đó dự buổi nói chuyện của “đồng chí B” (một cán bộ cao cấp hoặc một thư ký đánh máy). Trong văn bản, đồng chí B có đề cập rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị ông ta được gọi là anh Ba. Đó là bí danh mà chúng ta được biết là của Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976 là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Mặc dầu tài liệu không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng văn bản được viết trong năm 1979, sau cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Nó được củng cố thêm bằng một tài liệu khác mang tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm 1979 theo chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần tự sự phản bội của Trung Quốc và, không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn đã kể lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi chú này có cho thêm số trang trong bản tiếng Pháp của cùng văn kiện: Ministère des Affaires Étrangères, La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années. Dịch giả xin cám ơn Thomas Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong Thach, và hơn cả là một độc giả Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng góp cho nhiều ý kiến quý báu. Dịch giả xin chịu trách nhiệm về những sai sót trong bản dịch này.

2. Những dấu tỉnh lược (…) như vậy là nguyên văn trong bản gốc; những dấu tỉnh lược và nhận xét của dịch giả được đặt trong dấu ngoặc vuông: […].

3. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một khu vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh (Bắc Lào) Phong xa lỳ và Sầm Nưa. Không có một nhượng địa tương tự cho Khơ me It xa la, đồng minh của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

4. Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết cuộc hội đàm cấp cao về Lào diễn ra vào tháng 8 – 1961 (La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années, trang 34).

5. Trương Văn Thiên là một trong những thành viên của Đoàn đại biểu Trung Quốc, người đã có mặt khi Lê Duẩn phát biểu những nhận xét này. Ông còn là Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy viên lâu năm trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội chủ nghĩa.

6. Sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua đã miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân. The Truth…, trang 40. (La vérité…, trang 31.)

7. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (La vérité…, trang 47.)

8. Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ giải thích việc tập kết cán bộ miền Nam ra Bắc. Lê Duẩn cũng cố tình lảng tránh không đề cập đến việc Trung Quốc đã giúp Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954.

9. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang 60, đoạn phía Việt Nam đã nói với Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”. (La vérité…, trang 47.)

10. Một trong những thư ký của Lê Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu hành ở Việt Nam cuốn Hồi ức của ông ta, trong đó có nhiều chi tiết lý thú về đường lối của Lê Duẩn đối với sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ trong (hàng ngũ cán bộ cao cấp của) Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề này trong những năm 1960. Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả hiện có một bản.

11. Khang Sinh (1903-1975), một trong những chuyên viên hàng đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về an ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ (NKVD) Liên Xô đào tạo trong những năm 1930, và trở thành cố vấn thân cận nhất cho Mao trong việc cắt nghĩa những chính sách của Liên Xô. Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính trị từ 1969; giữa 1973 và 1975 ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị.

12. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang 43, trong đó Việt Nam tuyên bố là Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi Việt Nam là ưu tiên số một trong vấn đề viện trợ cho nước ngoài để đổi lấy việc Việt Nam sẽ khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. (La vérité…, trang 33.)

13. Xem “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (La vérité…, trang 33) và cả Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.

14. Tháng 11-1966, Liên Xô lên án Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản thế giới đã được thông qua tại các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.

15. Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết Mao đã phát biểu như vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963. Trong sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (La vérité…, trang 9).

16. Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc “tôi có thể đánh bại cả các anh”.

17. Đối với dịch giả (Christopher E. Goscha), chỗ này không được rõ là Lê Duẩn muốn nói tới ai khi dùng chữ “quân sự”. (Ngược lại, đối với người dịch ra tiếng Việt thì rõ ràng trong ngôn cảnh này ông nói là tôi mời một số anh em bên quân đội…, một cách nói thân mật, thường dùng thời đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số tướng tá cao cấp).

18. Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ Trung-Xô. Đại sứ Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên Xô: “Nếu bọn đế quốc dám tấn công Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề ngần ngại, sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.” Trích từ Donald S. Zagoria, Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967), trang 139-140.

19. Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc từ 1951 đến 1969.

20. Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc vụ viện từ 1965 đến 1967. Giữa 1968 và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, và từ 1973 là Bộ trưởng Ngoại thương Trung Quốc.

21. Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977.

22. Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng 3-1945, thậm chí chỉ với số người ít hơn, Pháp đã có thể cai trị Việt Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn.

23. Về cố vấn Trung Quốc, xin xem Qiang Zhai, Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2000), và Christopher E. Goscha, “Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận án trình bày tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris, 2000, phần Trung Quốc.

24. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc, nhưng ông thường được cho là vẫn ở lại miền Nam thời kỳ này trong cương vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, mà sau này đổi thành Trung ương cục miền Nam vào đầu năm 1950. Dịch giả cũng hoài nghi việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm 1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn thì không.

25. Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này.

26. Điều này khẳng định Đồng chí B cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng Anh Ba là bí danh của Lê Duẩn, từ đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn. Từ những sự kiện được nói đến trong văn bản thì điều này là chắc chắn, và cuốn Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này.

27. Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan điểm cần tranh luận, xin tham khảo thêm cuốn Giọt nước trong biển cả (Hồi ức về một cuộc cách mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986).

28. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.

29. Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu).

30. Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn cảnh chiến tranh du kích.

31. Điều này đã diễn ra vào tháng 6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn trong vấn đề này xin xem Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Sau đại hội Đảng Cộng sản Ru ma ni tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một cuộc họp tại chỗ các trưởng đoàn đại biểu những nước có mặt. Trong buổi họp đó Khơ rút xốp đã phê phán Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao, người mà ông ta cho là “giáo điều” vì những quan điểm của Mao về vấn đề chung sống hòa bình. Xem Adam B. Ulam, The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991 (New York: Macmillan, 1992), trang 211.

32. Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác.

33. Đây có lẽ muốn nói tới những nhà lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê Duẩn nói chuyện, và có thể là một chỉ hiệu rằng người đồng chí thân Trung Quốc đã nói ở trên không có mặt trong buổi nói chuyện này. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.

Nguồn: Thư viện Quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris.

Tại sao quan hệ Việt - Trung là quan hệ nhạy cảm?

Lâu nay một bộ phận trong dư luận hải ngoại thường cho rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, những người lãnh đạo CHXHCN Việt Nam, hoặc những bộ phận của Đảng và Nhà nước cộng sản là “hèn nhát” trước Trung Quốc mỗi khi VN làm cái này hoặc không làm cái kia, đặt nặng vấn đề này hoặc không đặt nặng vấn đề kia. Tôi thì chỉ nhìn vào vấn đề chính, cái cốt lõi nhất, đó là khi có xâm lược thì VN sẵn sàng đánh xâm lược và khi giặc chưa xâm lược thì VN đang tích cực bảo vệ chủ quyền bằng cách: Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc, và hiện đại hóa quân đội, nâng cao hệ thống phòng thủ và tăng cường năng lực tác chiến phòng thủ. Nghĩa là tất cả những gì liên quan đến chủ quyền thì chúng ta đều đã và đang làm, bất kể điều này đối nghịch với lợi ích và những tuyên bố của phía TQ, bất kể những điều này có làm TQ phật lòng hay không.

Từ thực tế khách quan trên, tôi cho rằng tất cả những hành động chính trị, quyết định chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam đều có nguyên nhân của nó, và chắc chắn không thể xuất phát từ tinh thần hèn nhát. Cách đây không lâu, VN ngay cả cầm súng bắn Trung Quốc cũng đã làm thì không phải là hèn, và ngày nay, VN đang làm tất cả vì chủ quyền của mình bất kể nó mâu thuẫn với lợi ích TQ, như vậy không phải là hèn. Một người thì không thể vừa “hèn” vừa “không hèn”, cho nên khi đã xác định VN không hèn thì nên có một niềm tin nhất định, đó là niềm tin thực tế, có căn cứ, chứ không phải niềm tin mù quáng, phi thực tế, vô căn cứ.

Từ sự hiểu rõ bản chất và niềm tin trên, mỗi khi tôi thấy VN nhường TQ điều gì, hay tỏ thái độ mềm dẻo gì thì tôi hiểu rằng đó là những sách lược chính trị tạm thời và đều có nguyên nhân sâu xa của nó, thậm chí có những vấn đề chính trị bên trong mà chúng ta chưa biết hết. Những hành động đó có thể đúng, có thể sai, có thể chúng ta đồng ý với nó, có thể chúng ta không đồng ý với nó, nhưng chắc chắn nó không phải xuất phát từ tâm lý hèn hạ, hèn nhát.

Có rất nhiều nguyên nhân khiến quan hệ Việt - Trung là mối quan hệ nhạy cảm và Trung Quốc luôn là bóng ma ám ảnh cho chủ quyền VN và là mối đe dọa lớn nhất cho chủ quyền lãnh thổ VN.

Có rất nhiều nguyên nhân vì sao các lãnh đạo VN coi đây là vấn đề nhạy cảm, và trong đó đều là những nguyên nhân khách quan với mong muốn trước hết là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, sau là bảo vệ hòa bình, tránh chiến tranh tàn phá đất nước, chiến sĩ hy sinh, đồng bào đổ máu, bao nhiều thành tựu từ Đổi mới, bao nhiêu nỗ lực xây dựng đất nước và hồi phục suy thoái kinh tế toàn cầu trở thành công cốc. Chứ trong đó không có cái gì là từ sự nhát, sợ Trung Quốc, hay hèn như một số người đã lầm tưởng.

Hiện Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh với VN nhất. Do địa lý gần gũi thuận lợi, do có mâu thuẫn trực tiếp chủ quyền lãnh thổ và những nguồn lợi kinh tế biển, trong đó có những nguồn dầu ở Biển Đông.

Trung Quốc chưa gây chiến, chưa xâm lược là vì họ vẫn còn đang muốn giữ hòa bình để tập trung phát triển kinh tế và đang chưa có cái cớ nào khả dĩ để mà có thể dùng làm chiêu bài chính trị. Khi phe hiếu chiến lên nắm quyền, thì bất kỳ 1 chuyện nhỏ nào cũng có thể được dùng để khai thác, đào bới, khoét sâu, thổi phồng lên để hình thành 1 chiêu bài chính trị gây chiến.

Đừng tưởng sự dung dưỡng, thả lỏng đối với những chuyện nhỏ không thể tích tụ thành một chuyện lớn, tạo điều kiện cho TQ tuyên truyền thổi phồng, nâng cao quan điểm, leo thang mâu thuẫn, leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh rồi tới xung đột quân sự, rồi tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc (xem cuộc chiến 1979).

Đối với TQ là sự chưa muốn gây chiến. Còn đối với VN là sự hoàn toàn không muốn có chiến tranh lúc này. VN đang "sợ" chiến tranh hơn TQ là vì VN có nhiều thứ để mất hơn TQ, thế yếu hơn TQ, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa TQ. Thực lực đôi bên một trời một vực. Thực lực tổng thể đã một trời một vực, thực lực quân sự trên biển và trên không cũng còn một khoảng cách rất xa.

Nếu chiến tranh trên bộ thì TQ chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào thôn tính VN. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển trong 1 hình thái chiến tranh mới, phụ thuộc nhiều vào sức mạnh vũ khí không quân và hải quân để làm chủ vùng trời và vùng biển thì hầu như chắc chắn VN sẽ thua và bị mất thêm chủ quyền, hầu hết các chuyên gia quân sự quốc tế đều đồng thuận với nhau về điểm này. Bởi vì trên biển và trên không, VN không thể áp dụng chiến tranh nhân dân và khó thể áp dụng chiến tranh du kích như trên bộ.

Trong cuộc chiến, sự thiệt hại của TQ nếu có chỉ sẽ là rất nhỏ so với thực lực tổng thể của họ, họ sẽ tốn thật nhiều lính mà họ có thể đang ngầm muốn chết bớt do nạn dân số và trai thừa gái thiếu, họ đang muốn "tống khứ" bao nhiêu đàn ông TQ đi ra nước ngoài qua nhiều hình thức khác nhau còn không kịp thì họ sẽ không tiếc sinh mạng những người lính. Nhưng VN thì tiếc mạng sống binh sĩ và đồng bào.

Có thể TQ sẽ mất vài tỷ đô la, một phần vũ khí sẽ bị hư hại, một số tàu sẽ chìm, rồi sao? Họ còn bao nhiêu tiền với tiềm lực kinh tế đó và còn bao nhiêu vũ khí khác chưa dùng và họ rất sẵn sàng mua lại hoặc chế mới để bổ sung, hiện họ vẫn đang mua sắm và sản xuất đều đặn.

Dù VN có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, nhưng trong 1 cuộc chiến tranh trên biển, dù 1 tàu VN, 1 máy bay VN thiện chiến nhất thế giới thì cao lắm có thể chọi 3 tàu địch, máy bay địch, VN sẽ gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí, mạng đổi mạng với địch, nhưng sau khi ta hết vốn, địch cho bổ sung thì ta sẽ đưa lưng ra chịu đòn. Rồi sẽ có bao nhiêu Gạc Ma khác, có bao nhiêu Vòng tròn bất tử khác, bao nhiêu Quảng Trị khác (Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam không có không quân và hải quân nên trơ trọi chịu trận trước không quân Mỹ và Hạm đội 7 của Mỹ dội bom và pháo kích vào, quân đội ban đầu có cả ngàn người nhưng không còn bao nhiêu người sống sót, nhưng quyết bám đất đến cùng, không bỏ chạy, đó cũng là 1 Vòng tròn bất tử trong thời chống Mỹ.). Rồi ta sẽ mất bao nhiêu bãi Gạc Ma nữa, bao nhiêu người sẽ hy sinh nữa?

Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hết vốn, địch vẫn còn vốn và tiếp tục mua mới, sản xuất với tiềm lực kinh tế đó, còn ta thì biết bao giờ mới xây dựng lại được 1 lực lượng hải quân tạm có tính răn đe như hiện nay? Bao giờ mới có lại những vũ khí hiện đại đó? Những anh bạn "không hèn" có sẵn sàng thắt lưng buộc bụng để cho VN có thể áp dụng chính sách Tiên quân (quân đội trước) như Triều Tiên hay không?

Khi nói, phán, chửi, chê thì rất dễ, không có gì dễ hơn, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy bao nhiêu chuyện. Đứng ngoài phê phán thì bao giờ cũng là dễ nhất.

Lực lượng hải quân và không quân VN hiện nay tuy đang được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn chỉ có tính răn đe, làm cho TQ chùn bước phần nào vì sợ tổn thất vũ khí và tiền bạc, chứ nó chưa đủ sức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ nếu có 1 cuộc chiến tranh toàn diện tại đây. Hải quân TQ năm 2012 ngày nay không phải là hải quân lạc hậu năm 1988.

Vì những lẽ đó, mới có xu hướng nhường nhịn, lấy đại cuộc làm đầu, 1 câu nhịn 9 câu lành để bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ gìn hòa bình và sự ổn định trong khu vực. Vì khi có chiến tranh, VN ít nhiều gì cũng sẽ mất thêm chủ quyền, mất đi năng lực phòng thủ cho sau này, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ còn nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Chính những lợi ích dân tộc đó, những lợi ích quốc gia đó của đất nước, mà chúng ta cố gắng không để bất kỳ cái gì biến thành (hoặc có thể để cho TQ sử dụng) một cuộc leo thang mâu thuẫn, xung đột từng bước.

Năm 1992 VN khó khăn lắm mới đấu tranh thuyết phục TQ ký vào hiệp nghị gác lại quá khứ và không tuyên truyền chống nhau, để hoàn toàn bình thường hóa quan hệ với TQ, xây dựng không khí hòa bình, xua tan không khí chiến tranh lạnh có thể bùng nổ thành chiến tranh nóng bất cứ lúc nào giữa 2 nước. Và lâu nay TQ về cơ bản vẫn ngăn chặn những thông tin về cuộc chiến năm 1979 và hải chiến TS. Bây giờ khi xảy ra cái gì, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo VN vi phạm hiệp định rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger TQ, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ VN, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ VN, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Vòng tròn bất tử, Gạc Ma ... thì có phải là sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột, xung đột này mở ra xung đột kia hay không?

Và VN có thắng nổi một cuộc chiến tranh thông tin với TQ hay không? Thông tấn xã Việt Nam là gì so với Tân Hoa xã, CCTV có chi nhánh khắp thế giới? Cộng đồng mạng VN tỷ lệ so sánh với cộng đồng mạng TQ thế nào, rồi sự khổng lồ áp đảo này sẽ tác động tới quốc tế thế nào?

Trung Quốc không sợ chiến tranh, càng không sợ 1 cuộc chiến trên biển với VN vì họ biết ưu thế của họ và khuyết điểm quân sự của VN chưa đủ thời gian để lấp lại. Và 1 bộ phận bá quyền, bành trướng, phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh vẫn còn đó, chúng nó đang chực chờ 1 cái cớ để kiến nghị gây chiến. Loại chống Việt, muốn liên Tây đả Việt, sống ký sinh trên chiến tranh, theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc thì TQ lâu nay luôn có, chỉ cần chúng có cái cớ gì đó và chúng lên cầm quyền là xong. Đại hội Đảng TQ sắp đến và chúng ta chưa biết phe nào sẽ lên nắm quyền.

Ông Bạc Hy Lai thuộc phe tả khuynh, chống Tây bị phe hữu khuynh, thân Tây Ôn Gia Bảo, Tập Cận Bình dùng con bài Vương Lập Quân để làm cái cớ cách chức chính là 1 dấu hiệu không hay cho VN. Vì lâu nay phe đậm chất ý thức hệ như Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh luôn có những xu hướng thân VN và chống Tây, chống tư bản hơn, vì lý do ý thức hệ.

Phe thân Tây thì chủ trương "viễn giao cận công" (hòa xa, chống gần). Đó là vì sao ông tổ của Cải cách TQ và thân Mỹ là Đặng Tiểu Bình cũng chính là tên đầu sỏ xâm lược VN trong năm 1979 trong khi phe trung thành với truyền thống, đậm chất ý thức hệ như Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong đều phản đối.

Và còn bao nhiêu thế lực Mỹ - Tây, phản động đang rình rập tìm cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ, động lực khác nhau. Đục nước béo cò. Thừa nước đục thả câu.

Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng tình hình vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mà một khi xảy ra thì VN chắc chắn sẽ mất thêm chủ quyền và nhiều mất mát khác về vũ khí, năng lực phòng thủ, thực lực tổng thể, kinh tế, sinh mạng con người v.v.

Cách đây 1 tuần NXB Tri Thức ở VN vừa xuất bản cuốn "Xung đột trên biển Đông không còn là nguy cơ tiềm ẩn" của tác giả Lê Hồng Thọ (Mỹ) và nhiều đồng tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy chiến tranh đang chình ình trước mắt, bất kỳ một leo thang nào, một hành động nào dẫn tới leo thang, đều có thể dẫn tới xung đột quân sự và đưa tới chiến tranh quy mô. Đồng nghĩa với việc VN sẽ mất thêm chủ quyền và thêm hàng ngàn người VN sẽ thiệt mạng, đời sống người dân đang khó khăn sẽ còn khó hơn, và bao công lao xây dựng hệ thống quốc phòng trên biển và phục hồi khủng hoảng sẽ trôi sông trôi biển.

Do địa lý gần gũi thuận tiện, Trung Quốc có quan hệ ràng buộc kinh tế rất lớn với VN, là 1 thị trường xuất khẩu khổng lồ của VN, nhất là lương thực, hiện TQ đang là thị trường rộng lớn nhất và thuận tiện nhất cho người VN trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc hiện đang nổi lên là một thị trường nhập khẩu gạo ngày càng quan trọng của Việt Nam.

Trong vòng hơn hai tháng qua chỉ riêng Trung Quốc đã nhập khẩu từ Việt Nam 500.000 tấn gạo. Dự báo trong năm nay, TQ có thể nhập khẩu từ Việt Nam ít nhất là 1 triệu tấn gạo. Nếu xảy ra chiến tranh, TQ sẽ học Mỹ ban lệnh cấm vận như thời gian 1979-1992, bao nhiêu nông dân VN sẽ phải chật vật. Năm 1992, VN đã rất khó khăn để phá thế cấm vận của Mỹ - Trung.

Tức là bên cạnh việc mất thêm chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải, máu đổ, chết chóc, đời sống dân chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khó khăn chồng chất thêm khó khăn, khủng hoảng tài chính quốc tế vừa đẩy đi phần nào sẽ trở lại. Chứ không phải chỉ có đánh nhau đổ máu trên đất liền, trong thành phố thì mới đưa đến đổ vỡ kinh tế.

Việt Nam có hèn không? Muốn biết có hèn không thì cứ nhìn thẳng vào thực tế về những vấn đề chính: Từ khi VN giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. Còn khi chúng chưa kéo tới đánh thì ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng tạm chiếm. Và liên tục tăng cường hiện đại hóa quốc phòng, chú trọng vào hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới.

Chúng ta đánh Trung Quốc khi chúng xâm lược, cầm súng bắn vào TQ thì sao gọi là hèn nhát? Có hành động nào dũng cảm hơn thế?

Chúng ta liên tục và thường xuyên hành xử chủ quyền, tổ chức bầu cử, khai thác tài nguyên trên những vùng TQ tuyên bố thì sao gọi là sợ TQ?

Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của TQ và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, thì sao gọi là hèn nhát?

Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà TQ tuyên bố. Bác bỏ và phủ định những tuyên bố chính thức của TQ, sao có thể gọi là hèn nhát?

Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, sao gọi là hèn nhát?

Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên những vùng Trung Quốc coi là của mình và tuyên bố chủ quyền, sao lại gọi là hèn nhát?

Rõ ràng VN công khai và chính thức, giữa ban ngày ban mặt quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, trong khi TQ và cả thế giới biết VN đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lãnh hải, lãnh thổ với TQ, làm sao có thể gọi là hèn được?

Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, lên trên cả mong muốn hòa bình và kinh tế. Nếu VN đặt hòa bình cao hơn thì đã không có những hành động trên, mà mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của TQ, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của TQ, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. VN ý thức rõ điều đó, nhưng vẫn làm, vì nó là chủ quyền, VN đặt chủ quyền lên trên hòa bình.

Nếu VN đặt kinh tế lên trên chủ quyền thì cũng như đã nói, đã không tốn hàng tỷ đô la mua nhiều vũ khí tối tân, đã không dám làm những cái gì có thể gây ra sự leo thang mâu thuẫn đưa tới xung đột quân sự, gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế.

Tất cả những gì liên quan tới chủ quyền, lãnh thổ thì VN đều đã làm những gì có thể làm, những gì trong khả năng thực tế mà thế và lực VN hiện nay có thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay nguyện vọng hòa bình ổn định của VN trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan điểm, lập luận, và lợi ích của TQ.

Nhưng những gì không liên quan tới chủ quyền, bất cứ cái gì khác mà không liên quan đến chủ quyền thì chúng ta đều có thể hy sinh, để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ hòa bình, tránh chiến tranh, như những lý do đã phân tích ở trên.

Và bảo vệ hòa bình trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, vì khi có chiến tranh thì VN sẽ mất thêm lãnh thổ, lãnh hải so với tương quan lực lượng quân sự giữa hai bên lúc này. Và sau chiến tranh nguy cơ bị mất thêm, mất tiếp chủ quyền sẽ còn dài dài vì lúc đó VN phải xây dựng lại hệ thống quốc phòng gần như từ đầu, đã cạn vốn.

Cho nên, tất cả những cái gì mà một số "còm sĩ", "phán sĩ" bảo rằng tại sao không dám cái này, tại sao phải nín cái kia, tại sao phải nhịn cái nọ, tại sao phải bảo mật cái này, phải không công bố cái kia v.v. Tất cả những hành động đó không phải là xuất phát từ một tinh thần hèn nhát, mà là xuất phát từ một nhận thức rõ ràng về lợi ích quốc gia dân tộc, về yếu tố lợi - hại của vấn đề, xuất phát từ nhiều lý do khách quan nằm trong mục đích duy nhất đó là lợi ích dân tộc và sự mong muốn bảo vệ chủ quyền và hòa bình ổn định trong nước và khu vực. Đó là những cái chính, những cái cao nhất và quan trọng nhất.

Người làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự hòa bình chính là cái lợi lớn đó.

Lãnh đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích chung đó. Họ đặt tình cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn cái tình cảm cá nhân với 1 người hay 1 nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng cái lâu dài hơn cái nhất thời. Lý trí làm chủ cảm tính.

Họ cũng căm tức như chúng ta, nhưng họ có trách nhiệm khác chúng ta, họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền bị nô lệ cảm xúc, bị cảm tính điều khiển hành động, hành động cốt miễn sao hả dạ, hả giận, hả hê, thỏa mãn, bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào họ mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy thì đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền lãnh hải lãnh thổ, thì ai chịu trách nhiệm? Chính họ chứ còn ai!

Cứ "ôn cố tri tân" thì chúng ta sẽ nhìn ra được rất nhiều điều. Lê Lợi sau khi giành được độc lập, lên ngôi vua, không vinh danh tưởng niệm những người lính chém chết Liễu Thăng (tướng Minh chết trận ở Đại Việt) mà lại còn đúc tượng vàng Liễu Thăng bằng tiền thuế của dân để cống cho triều Minh mỗi khi đi sứ (lệ cống người vàng này đến năm 1718 mới hết), xưng thần, tiến cống, xin sắc phong, chấp nhận làm 1 An Nam quốc vương, thần tử trên danh nghĩa, không có căn cước quốc gia chính thức, chấp nhận địa vị phiên thuộc đối với nhà Minh.

Nhưng không có sử gia nào sau này gọi Lê Lợi là hèn, bởi vì sao, bởi vì đó không phải là xuất phát từ tinh thần hèn nhát, Lê Lợi đã bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thực tế cho đất nước, xuất phát từ tinh thần thực tế, từ ý tốt muốn củng cố thái bình, muốn chấm dứt hẳn binh đao để xây dựng Đại Việt, xuất phát từ ý thức "tránh voi không hổ mặt nào", "1 câu nhịn 9 câu lành" v.v. Xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc, chủ quyền xã tắc và sự thái bình an lạc của muôn dân.

Ông hiểu rằng nước nó lớn, người nó đông, kinh tế nó mạnh, nó thua ta vài lần thì cùng lắm quân nó chết, kinh tế nó tổn hại một chút, còn dù ta thắng thì sao? Nước non tan hoang, kinh tế đổ vỡ, phải xây dựng lại từ đầu, đất nước kiệt quệ, sức dân khốn cùng. Rốt cuộc cũng vẫn phải nhượng bộ nó vấn đề này vấn đề kia để mưu cầu thái bình để cho quân dân nghỉ ngơi.

Trong thời kỳ chống Trung Quốc (1979-1992), năm 1979 quân ta đánh nhau ác liệt với quân Trung Quốc tại miền Bắc, gây cho chúng tổn thất nặng nề và đánh lui chúng về nước. Nhưng trong thời gian sau đó tới năm 1992 chúng ta vẫn chống Trung Quốc công khai, coi là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất", nhưng cũng không có những tưởng niệm, vinh danh xứng tầm hay nhắc lại, phổ biến thông tin gì nhiều về cuộc chiến này trong thời gian đó. Nhiều thông tin về những trận đánh nhỏ sau đó để giành lại từng tấc đất của Tổ quốc, ví dụ trận đánh Lão Sơn, đều được bảo mật ngay trong thời kỳ chống Trung Quốc đó.

Năm 1988, sau hải chiến Trường Sa, đài báo VN năm đó cũng không nhắc nhiều. Như vậy có phải là hèn? Ngay cả đánh mà ta còn dám đánh thì sao có thể gọi là hèn? Đánh còn dám đánh, cầm súng bắn thẳng vào lính Tàu mà còn dám thì sao không dám nói, không dám nhắc? Đó, vấn đề là ở chỗ đó, đó không phải là hèn, mà đó là vì chúng ta không muốn leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô lớn, chúng ta cần ổn định chính trị xã hội để xây dựng và bảo vệ nước nhà.

Trong tất cả những hành động đó, có thể thấy rõ ràng là: Xưa nay VN luôn đặt chủ quyền lên trên hết, vì chủ quyền thì khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh, dù những vùng đất mà TQ vẫn còn cố đóng giữ sau năm 1979 không có bao nhiêu giá trị địa lý, đất đai, kinh tế, quân sự, nhưng vì nó là đất tổ tiên, nó là chủ quyền, cho nên ta vẫn đánh để giành lại.

Ta không hy sinh chủ quyền chỉ vì muốn hòa bình. Ta không dùng chủ quyền để đánh đổi hòa bình. Nên ta đã đồng thời vừa đánh để giành lại chủ quyền, vừa bảo mật thông tin để tránh biến nó thành 1 làn sóng phẫn nộ, tạo điều kiện cho Mỹ và phản động khoét sâu và kích động leo thang lên thành 1 cuộc chiến quy mô.

Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian 1979-1992 đó đã cho chúng ta thấy rất rõ sự nhất quán trước sau như 1 về đường lối chủ trương của Đảng. Đó là 1. Chủ quyền, 2. Hòa bình. Chúng ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa tìm cách giữ cho nó trong sự kiểm soát, không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang cuộc chiến, cố gắng vãn hồi hòa bình, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.

Trong những ngày cuối tháng 2 trong cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn dám đánh sâu vào lãnh thổ Trung Quốc, đánh thẳng vào hai thị trấn Ninh Minh thuộc tỉnh Quảng Tây và Malipo thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Đó là lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam mà một quân đội Việt Nam đánh vào lãnh thổ Trung Quốc, lần thứ nhất là cuộc "tấn công để phòng thủ" của Lý Thường Kiệt. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh vào Trung Quốc là để tiêu diệt kho hậu cần mà giặc Tống chuẩn bị để tiến đánh Đại Việt. Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào Trung Quốc là để trả đũa và răn đe. Sự việc này nhiều tài liệu quốc tế đã ghi nhận, nhưng VN lại không tuyên truyền nhiều về nó vì những phức tạp ngoại giao và chính trị, nhưng ngay cả việc đánh vào đất Tàu mà còn dám thì chúng ta nên tự hiểu là VN có hèn hay không.

Ngay sau năm 1975 thì QĐNDVN và Khmer Đỏ đã giao chiến ở biên giới Tây Nam. Quân ta đã từng đánh sâu vào lãnh thổ của chúng để răn đe. Nhưng có nhiều thông tin lúc đó ta cũng đã tạm bảo mật. Không lẽ vậy có nghĩa là ta hèn trước Pol Pot? Cái gì cũng có lý do của nó. Nhưng sự thật cho thấy là ngay cả việc đánh vào đất địch mà ta còn dám, lật đổ kẻ thù ta còn dám, thì chắc chắn không phải là hèn.

Ngày nay cũng vậy, một mặt chúng ta tích cực mua sắm và sản xuất vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, liên tục và thường xuyên tuyên bố phản đối những hành động của TQ và khẳng định chủ quyền của VN, để giữ cho những vùng tạm chiếm vẫn là "vùng tranh chấp" theo pháp lý quốc tế (Vì chủ quyền). Mặt khác chúng ta cố gắng duy trì hiện trạng, giữ gìn hòa bình, không để bất cứ sự kiện gì có thể đưa đến leo thang, có thể liên kết với các sự kiện khác trở thành leo thang xung đột rồi bùng nổ chiến tranh (Vì hòa bình).

Và bảo vệ hòa bình trong thời điểm hiện nay cũng chính là bảo vệ chủ quyền (vì tương quan hiện nay mà đánh thì sẽ mất thêm). Cho thấy sự nhất quán của VN từ trước tới nay.

Đảng và Nhà nước Việt Nam vì lợi ích đất nước, vì chủ quyền và hòa bình, quyết tâm nhất quán trước sau như 1, đó là điều chắc chắn. Giặc kéo tới xâm lược thì ta sẽ giáng trả để trực tiếp bảo vệ chủ quyền đất nước. Giặc chưa kéo tới xâm lược thì ta mua sắm, sản xuất mới, hiện đại hóa quân đội, tập trận để răn đe giặc và chuẩn bị cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước.

Và thường xuyên tuyên bố chủ quyền để địch không thể hợp thức hóa, hợp pháp hóa, chính danh hóa, biến vùng tranh chấp thành vùng sở hữu của chúng. Và đồng thời ngăn ngừa những mầm mống có thể gây leo thang xung đột mà không liên quan đến chủ quyền, nhằm bảo vệ hòa bình. Ví dụ, mọi sự tuyên bố chủ quyền có giá trị với luật pháp quốc tế hay các hành động hành xử chủ quyền, tập trận, nâng cấp, mua sắm, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa hải quân và không quân tuy rằng sẽ gây leo thang xung đột nhưng nó vẫn cần làm vì nó liên quan trực tiếp với chủ quyền, liên quan tới mục tiêu bảo vệ chủ quyền, mà ta đặt chủ quyền ưu tiên lên trên mong muốn hòa bình.

Nhưng đồng thời, những vấn đề không liên quan tới chủ quyền thì ta có thể hy sinh, tạm gác lại, tạm khép lại v.v. để giữ gìn mục tiêu thứ hai, đó là hòa bình và ổn định, và cũng là để bảo vệ mục tiêu thứ nhất, đó là chủ quyền và lãnh thổ - lãnh hải, vì một khi chiến tranh xảy ra, với tương quan lực lượng hai bên, VN sẽ mất thêm chủ quyền và sau đó sẽ tiếp tục đối phó với nguy cơ mất thêm chủ quyền, sẽ còn mất nhiều thêm và dễ dàng mất thêm chủ quyền dài dài, còn phải nhượng bộ nhiều hơn, vì sau chiến tranh thì vũ khí của chúng ta sẽ gần như sạch vốn, hay ít nhất là yếu kém đi rất nhiều, và công cuộc hiện đại hóa sẽ phải xây lại từ đầu. Trong quan hệ quốc tế cái tư thế và thực lực yếu - mạnh là yếu tố quyết định, xưa nay đều là vậy, thế yếu với thế mạnh khác nhau xa lắm, không thể duy ý chí cái gì cũng coi là như nhau, ngang nhau, cái gì cũng có thể làm được trong một thế yếu, lực yếu, không thể ngây thơ coi mạnh - yếu như nhau và bên yếu có thể hành xử như bên mạnh.

Nhìn lại thời kỳ chống Trung Quốc, nhiều người chê trách ông Lê Duẩn quá cứng rắn nên mới để cho chiến tranh xảy ra, chứ nếu là Bác Hồ thì đã ngoại giao mềm dẻo hơn, kiềm chế hơn, đã giữ được không để leo thang xung đột thành chiến tranh. Ngày nay các lãnh đạo đã rút kinh nghiệm thời Lê Duẩn nên đang làm khác đi, thì cũng lại bị chê trách.

Nếu nhìn lại lịch sử, ôn cố tri tân, thì chúng ta thấy Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc không phải vì VN và TQ cùng ý thức hệ, cùng phe, mà vấn đề này nằm trong một sách lược chung, một chiến lược đối Trung Quốc xuyên suốt từ lịch sử trung đại cho đến nay. Đó là sách lược mềm dẻo, nhẫn nhịn để "cận giao" (hòa gần), có thể nhượng bộ nhiều thứ, xin sắc phong, chấp nhận làm một "thần tử" trên danh nghĩa, thậm chí dùng cả tiền thuế của dân để triều cống v.v. miễn sao giữ được chủ quyền, độc lập và giữ được thái bình, yên ổn. Thời phong kiến nào cũng vậy, kể cả những triều đại, nhà nước anh hùng nhất trong lịch sử VN.

Việt Nam nhẫn nhịn thận trọng trước Trung Quốc không phải vì có cùng ý thức hệ chính trị, hệ tư tưởng chính trị, mà là vì Trung Quốc là một nước mạnh, có sức mạnh kinh tế và quân sự mạnh hơn gấp bội, hiếu chiến, và có vị trí địa lý sát bên, đúng nghĩa "núi liền núi - sông liền sông", và đã có tiền lệ hung hăng gây chiến, lấn chiếm đất đai, xung đột quân sự đẫm máu với nhiều láng giềng, trong đó có Việt Nam. Nói theo kiểu dân dã thì TQ là một "gã hàng xóm khổng lồ" của VN.

Trong Thời đại Hồ Chí Minh những ngày đầu độc lập, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cũng đã nhượng bộ Tàu Tưởng rất nhiều vấn đề (Tàu Tưởng với ta khác ý thức hệ). Cụ thể:

- Khi "Hoa quân nhập Việt", đội quân vô kỷ luật của Trung Hoa Quốc dân đảng cướp phá bà con, cướp gà cướp vịt để ăn nhậu, nhũng nhiễu lương dân. Chính phủ ta lúc đó vẫn ra lệnh cho các lực lượng Dân quân - Tự vệ, du kích địa phương phải đề cao cảnh giác, kiểm soát chúng (với danh nghĩa "bảo vệ" cho chúng), nhưng không được nổ súng trước. Phải kỷ luật tối đa.

- Sau khi trên 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào Hà Nội và hoàn thành việc đóng quân ở nhiều vùng trên đất Bắc, thì chúng càng tăng cường lộng hành, tác quái, vô pháp vô thiên. Quân lính ô hợp của Quốc dân đảng cướp phá khắp nơi, bắt gà bắt vịt của dân đem đi nhậu nhẹt. Bọn tay sai người Việt thì dẫn quân Tàu đi lùng giết những người mà chúng gọi là "cộng sản", "theo Việt Minh".

Được hơn 20 vạn quân Tàu chống lưng, các đảng phái phản động tác oai tác quái, dùng xe của Tàu Tưởng chạy khắp đường phố Hà thành bắc loa chửi bới Việt Minh và kể tội chủ tịch Hồ Chí Minh, hô hào tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 1. Các đảng phái theo Tàu liên tục dùng báo chí tuyên truyền đả kích Việt Minh: "Trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản... Chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được". Tổ chức các cuộc "tuần hành", bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử.

Chúng tổ chức bắt cóc, ám sát ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (ví dụ ông Trần Đình Long) hay thủ tiêu những cá nhân, tổ chức có cảm tình với chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong ngày tổng tuyển cử Quốc hội lịch sử năm 1946, bọn tay sai Tàu Tưởng mang súng tiểu liên đến Ngũ Xã ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ đỏ sao vàng. Người dân Ngũ Xã rủ nhau kéo sang nơi khác bỏ phiếu.

Những tên tay sai của Tàu Tưởng dựa hơi chủ hoành hành đến như vậy nhưng Bác Hồ vẫn nhượng bộ Trung Hoa Dân Quốc mà chấp nhận "bố thí" cho Nguyễn Hải Thần (1 người luôn mặc đồ Tàu, nói tiếng Tàu rành hơn tiếng Việt), Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tường Tam và những kẻ khác 70 ghế trong Quốc hội mà không cần bầu cử, theo thỏa thuận trước đó giữa ta và Tàu Tưởng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" đã viết: "Chúng càng biết rõ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không mang lại gì cho chúng."

- Để đối phó với yêu sách và sức ép của Trung Hoa Dân Quốc đòi giải tán quân đội chính quy của VN, chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận tạm thời nhượng bộ, tháng 11 năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn, một trong những sách lược chính trị tạm thời làm nhẹ đi tính chất quốc gia, tính chất chính thức của quân đội, tạm thỏa mãn sự đòi hỏi của Tàu Tưởng. Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (thực tế là rút vào hoạt động bí mật). Sau khi Tàu Tưởng về nước thì Đảng mới xuất hiện trở lại và Vệ quốc đoàn mới đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, rồi Quân đội Nhân dân Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đi một nước cờ chính trị táo bạo, ký tạm ước và sau đó là hiệp định Sơ Bộ với Pháp, cho phép một bộ phận của quân đội Pháp ra đóng ở miền Bắc để ép Tàu Tưởng rút về nước. Đúng như dự kiến, Tàu Tưởng trước sức ép của quân đội cộng sản Trung Quốc trong nước, không muốn lôi thôi thêm nữa với 2 thế lực mạnh là Pháp và Việt Minh. Đứng trước 2 thế lực mạnh, họ không muốn phiêu lưu thêm nữa ở miền Bắc Việt Nam, đành chấp thuận rút quân. Bác Hồ đã thành công lợi dụng Pháp đẩy Tàu về nước.

Trong lúc quân Tàu rút về, chính phủ Việt Nam đã ra quân lệnh phải "bảo vệ" cho quân Tàu Tưởng đi về an toàn, cấm không được gây hại tới họ, ai vi lệnh sẽ xử theo quân pháp. Trong thời gian đó - trước tình trạng thiếu thốn vũ khí - có nhiều chiến sĩ Vệ quốc đoàn vì tiếc số vũ khí của Nhật bị Tàu đem về gần hết, nên muốn thừa cơ phục kích cướp lấy, trước khi đi nhiều người đã trốn cả cấp chỉ huy, tự ý hành động, có người bị phát hiện và ngăn cấm thì quyết tâm nói nếu bị lộ thì sẽ chấp nhận tử hình. Kết quả nhiều người giả cướp, giả quân phỉ và cướp vũ khí trót lọt. Nhưng cũng có không ít người thất bại, có những trận thua phải chạy về, những chiến sĩ thương vong bị địch lục áo tìm thấy được giấy tờ tùy thân, chúng kéo quân tìm tới các căn cứ của Vệ quốc đoàn vặn vẹo, hạch sách, đòi lại công đạo v.v.

Vì luật pháp, vì chính trị, vì ngoại giao, mà Nhà nước non trẻ đã phải "quân pháp bất vị thân", "đại nghĩa diệt thân", giam những chiến sĩ đó lại và có nhiều trường hợp đành phải tử hình. Nghe thì thấy ác, thấy vô cảm, nhưng là lãnh đạo, là người làm chính trị chân chính, thì đôi khi phải gạt bỏ tình riêng để mà vì cái lợi chung, đặt đại cuộc lên trên hết, lấy đại cuộc làm đầu.

Nói chung, tất cả những sự nhượng bộ từ lịch sử phong kiến tới nay đều vì đại cuộc, vì lợi ích lớn của dân tộc, vì những sách lược chính trị, chiến lược đối ngoại tạm thời. Thời đó chính phủ Hồ Chí Minh cũng bị những kẻ phản động kích động, nâng quan điểm lên rồi mắng nhiếc, chửi rủa là "hèn nhát", "nhục quốc thể", "nhục nhã", "mất mặt", "mất danh dự" v.v. Tay sai của Pháp thì chửi tại sao ta nhường nhịn "kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa". Tay sai của Tàu Tưởng, Nhật thì lại chửi việc ta ký hiệp định Sơ Bộ, họ xuyên tạc rằng đó là "hiệp ước bán nước", "Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp" v.v. Nhưng những chiến công hiển hách và những kết quả độc lập - thống nhất - hòa bình sau đó đã cho câu trả lời, đã cho thấy những quyết sách đó là đúng.

Ngẫm nghĩ lại những sự việc trên và thời điểm lịch sử lúc đó, nên tự hỏi, vì sao chủ tịch Hồ Chí Minh không ngại một cuộc chiến với thực dân Pháp bằng e ngại một cuộc chiến với Tàu Tưởng? Trong khi quân Pháp thiện chiến, chuyên nghiệp, vũ khí hiện đại hơn quân ô hợp với những vũ khí lạc hậu của Tàu Tưởng rất nhiều. Đó là vì Bác Hồ hiểu người phương Tây vốn thực dụng và Pháp là bọn ở xa, đánh xong rồi thôi, thua xong rồi thôi. Còn một khi có chiến cuộc với người Trung Quốc, gã hàng xóm khổng lồ ở sát bên cạnh, thì sẽ lắm gay go về lâu dài. Xin lưu ý, năm 1946 Tàu Tưởng vẫn còn rất mạnh ở Trung Quốc và lúc đó vẫn chưa thể biết phe Tưởng hay phe Mao sẽ thắng.

Người làm chính trị luôn lo đến cái lợi lớn của đất nước, cái tổng thể, cái chung nhất, cái lâu dài, cái bền vững, không để những tiểu tiết làm hư đại sự, không vì muốn thỏa mãn những cảm tính, tự ái dân tộc mà làm hỏng đại cuộc.

Vì những lẽ lợi - hại đó, vẫn sẽ có những hạn chế phần nào trong báo chí và dư luận để phục vụ cho sách lược đối ngoại chung đối với Trung Quốc, giữ cho tất cả trong vòng kiểm soát, không leo thang căng thẳng, dần đưa tới mâu thuẫn, từng bước đưa đến xung đột quân sự và chiến tranh quy mô. Đồng thời không để thế lực thứ ba nào lợi dụng tình hình căng thẳng giữa hai bên để trục lợi.

Còn đối với những kẻ phản động, chống cộng ở hải ngoại, từng có "thành tích" bán nước, theo giặc 3 đời vẫn luôn miệng tuyên truyền dối trá nâng quan điểm về những cái gọi là "đại họa mất nước" (?), "Việt Cộng bán nước", "Cộng sản Việt Nam dâng đất bán biển" v.v. thì họ là những kẻ thù hận điên cuồng, u mê mù quáng, không dám chấp nhận sự thật. Chúng ta không quan tâm và không hy vọng gì vào những phần tử này. Khi Việt Nam giữ quan hệ bình thường với Trung Quốc thì họ vẫn sẽ còn tiếp tục bám vào đó, sống ký sinh lên trên đó và tiếp tục chửi bới.

Nhưng nếu Việt Nam chuyển sang chống Trung Quốc như trong giai đoạn 1979-1992 thì cũng không có khả năng nào họ theo VN chống TQ, mà trái lại họ sẽ càng lợi dụng phá thêm và mong muốn TQ chiến thắng, như họ đã từng mong muốn "Trung Cộng đánh thẳng vào Hà Nội giết sạch Việt Cộng" năm 1979. Như họ nhân lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang chống xâm lược mà kích động, tổ chức phá trại cải tạo, vào rừng lập "chiến khu" chống Việt Cộng, khủng bố đặt bom khắp các đô thị miền Nam, thời ấy họ lợi dụng thời cơ khi giặc Tàu đang xâm lược và đánh nhau với Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc thì ở miền Nam thỉnh thoảng vẫn có những tiếng nổ do bọn phản động - khủng bố phá hoại. Bọn Fulro và bọn khủng bố tiền thân của Việt Tân nhân cơ hội chiến tranh đó, đã "đục nước béo cò", "thừa nước đục thả câu" mà thừa cơ đánh phá vào trong nước, đem tiền giả, ma túy, súng đạn vào khủng bố trong nước. Những kinh nghiệm từ lịch sử vẫn còn rành rành ra đó.

Đây là bọn phản quốc và trên thực tế đã chống dân tộc, chống nhân dân, chống đất nước, chống Tổ quốc nhiều đời, nhiều lần trong lịch sử hiện đại, chứ không chỉ có chống Đảng Cộng sản, chống Hồ Chí Minh, chống CNXH, chống CNCS. Vì vậy chúng ta nên tin vào những người có uy tín chống xâm lược, không nên hùa theo những kẻ từng ô danh theo giặc xâm lược, phản bội Tổ quốc.

Họ trung thành với nước Mỹ chứ không phải trung thành với nước Việt. Họ yêu bản thân chứ không yêu nước. Mục đích tối hậu của họ là lật đổ Nhà nước Việt Nam để phục hận sau khi những lợi ích gắn liền với giặc xâm lược của họ bị mất sạch sau khi Việt Nam thắng Mỹ. Họ muốn trở về rửa hận, lấy lại những gì đã mất, để tranh quyền giành ghế, tranh giành quyền lực để được làm ông nọ bà kia. Mối quan hệ phức tạp Việt - Trung chính là một trong những chiêu bài để họ nắm lấy, khai thác, và lợi dụng để thực hiện mục đích tối hậu đó, vì lợi ích riêng của chính bản thân họ, bất chấp lợi ích chung của đất nước và dân tộc.

Họ hô hào kích động chiến tranh vì nếu xảy ra chiến tranh thì chỉ có máu đồng bào trong nước đổ, đất nước VN điêu tàn, kinh tế VN thảm hại, cuộc sống người dân điêu đứng, chứ họ ở bên Mỹ, ở hải ngoại, cách VN nửa vòng trái đất, họ không chịu trách nhiệm và không bị một sự ảnh hưởng nào. Đôi khi vì cái Tôi của mình, một số họ cũng tự thôi miên và tưởng rằng ta đây "yêu nước" thật, không dám nhìn thẳng vào sự thật là họ đang đi ngược lại với quyền lợi dân tộc và đất nước, làm trái lại với những nguyện vọng và lợi ích của nhân dân Việt Nam, họ dối mình gạt người và lừa gạt cả con cháu, tuy nhiên nhiều người trẻ thế hệ 3, 4 ở hải ngoại sau khi tiếp cận với những thông tin trong nước và các thông tin khách quan quốc tế, cũng đã dần dà hiểu ra vấn đề.

oOo


Việt Nam là đối tượng dễ xảy ra chiến tranh với TQ nhất không hẳn vì VN không được Mỹ chống lưng, mà chủ yếu là vì địa lý gần gũi, thuận lợi và tương quan thực lực quốc phòng giữa hai bên. Lịch sử đã cho thấy dù TQ đang quan hệ với Mỹ như thế nào thì khi cần đánh, thấy đánh được thì họ vẫn đánh, không hề sợ Mỹ. Ví dụ chiến tranh Triều Tiên và những nỗ lực thống nhất Đài Loan trong những năm cuối 1940, đầu 1950. Hay như năm 1974, Mỹ ở ngay trong khu vực, Hạm đội 7 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang lù lù ngay đó nhưng họ vẫn thỏa hiệp được với Mỹ rồi tiến vào chiếm đóng Hoàng Sa.

Hiện nay, Trung Quốc chưa đánh Đài Loan không phải vì Đài có Mỹ, mà là vì sức mạnh quân sự và khả năng tự vệ của Đài Loan. Họ chưa đánh Philippines không phải vì Phi có Mỹ, mà vì Phi ở xa, Malaysia không có ai chống lưng và tiềm lực quốc phòng không mạnh, nhưng họ cũng chưa đánh vì ở xa, địa lý không thuận lợi, chưa thích hợp. TQ phải vượt qua chướng ngại vật VN rồi mới có thể mở đường ra, dùng các lãnh thổ, lãnh hải của VN làm căn cứ, làm cơ sở, làm bàn đạp, bành trướng xuống Đông Nam Á. Chưa vượt qua nổi VN thì chưa thể bành trướng xuống phương Nam.

Cũng vậy, Trung Quốc chưa đánh Hàn Quốc, Nhật Bản không phải vì Hàn - Nhật có chiếc dù Mỹ, mà vì thực lực quốc phòng của 2 nước này. Nga, Ấn Độ không có Mỹ chống lưng nhưng chưa bị TQ đánh là vì họ cũng có tiềm lực quốc phòng, năng lực tự vệ mạnh mẽ, sức mạnh răn đe đáng kể.

Tất cả những quốc gia trên đều đang có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, biên giới với TQ nhưng chưa bị tấn công đều không phải nhờ chiếc dù của ngoại bang nào, mà đều vì chính sức mạnh quốc phòng của họ hoặc địa lý của họ chưa thích hợp cho TQ khởi binh. Việc được các ông lớn, nhất là Mỹ chống lưng chỉ làm chùn bước TQ phần nào, nhưng như lịch sử đã cho thấy, khi cần đánh thì họ vẫn sẽ đánh, từ năm 1950 một TQ lạc hậu đã không sợ Mỹ, dám đem 100 vạn quân vào bán đảo Triều Tiêu đánh nhau trực tiếp với Mỹ, thì một TQ hiện đại hóa, kỹ thuật cao, công nghệ tối tân ngày nay cũng sẽ không sợ Mỹ.

Theo thạc sĩ Lê Hồng Hiệp, giảng viên của Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thì Việt Nam nên tránh Mỹ và các đại siêu cường, mà nên thiết lập quan hệ an ninh – quốc phòng chiến lược với các thế lực bậc trung.

Đây là điều hợp lý, thường trong quan hệ quốc tế và trong quan hệ con người nói chung, trong bất kỳ mối quan hệ nào, thường thế và lực giữa hai bên phải không quá chênh lệch thì mối quan hệ mới công bằng và dễ có sự chân tình với nhau. Một bên quá mạnh và một bên quá yếu thì khó thể có mối quan hệ công bình, bình đẳng, đến một lúc nào đó nước nhược tiểu kia sẽ trở thành vật hy sinh của "ông bạn lớn", bị "đồng minh" bán rẻ, bán đứng, đâm sau lưng, các "ông lớn" sẽ gạt mình qua một bên để thỏa thuận sau lưng, thỏa hiệp trên lưng với nhau rồi sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình vì lợi ích của họ.

Tuy nhiên, cái gì cũng có thể có ngoại lệ, căn cứ vào logic thông thường hiện nay, cường quốc quân sự duy nhất trên thế giới ngày nay mà VN có thể xem xét thiết lập một mối quan hệ đồng minh chiến lược chính là Nga. Hai nước có cái tình và có sự ít nhiều tin tưởng nhau (ít nhất là tin rằng 2 bên không làm hại nhau, không có nhu cầu hại nhau) từ thời Liên Xô. Và Việt Nam lâu nay vẫn là bạn hàng, đối tác tin cậy của Liên bang Nga. Không có nhiều quyền lợi, lợi ích mâu thuẫn, trái ngược nhau. Có sự thuận lợi đặc thù về địa lý, Nga - Việt không ở gần nhau và không có mâu thuẫn về lãnh thổ, mà lại có một mối quan hệ chiến lược từ vị trí địa lý, khi 2 nước cùng như một gọng kìm ép Trung Quốc vào giữa. Nếu Việt - Nga kiên quyết giữ mối quan hệ mang tầm chiến lược lâu dài này thì sẽ có tác dụng ngăn ngừa, kiềm chế và hạn chế phần nào những tham vọng và sự gây hấn của TQ.

Nga không muốn Trung Quốc vượt lên mình quá xa, làm lu mờ đi vai trò của Nga, gạt đi tầm ảnh hưởng và sức mạnh của Nga trong khu vực, thậm chí trở thành mối đe dọa thường trực của Nga ở phía Nam. Hiện Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ nhiều lãnh thổ của Nga nơi biên giới.

Thiếu Long

Bài nói chuyện làm nóng rực Hội nghị Người Việt Nam ở Nước ngoài của Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn

Hội nghị người Việt Nam ở Nước ngoài lần 2 đã xuất hiện bất ngờ 1 "ngôi sao" bất đắc dĩ trong hội nghị, bởi vì bài nói chuyện của ông là bài nói chuyện được ủng hộ, phản ứng nồng nhiệt, được quan tâm lắng nghe, và phản hồi tích cực nhất trong tất cả các bài phát biểu, diễn văn trong hội nghị lần này.

Bài nói chuyện giản dị, chân thành, đầy tình cảm yêu nước thiết tha, không giống đang đọc diễn văn mà như đang nói chuyện tự nhiên với quan khách, báo cáo với kiều bào về tình hình Biển Đông, HS-TS, an ninh quốc phòng, và vấn đề đối ngoại với Trung Quốc. Nhiều vấn đề nhạy cảm, những câu chuyện ít người biết và không được đề cập trên báo chí chính thống cũng được nói thẳng ra.

Tướng Nguyễn Thanh Tuấn cũng kể lại câu chuyện chỉ mới đây thôi: Đối đáp giữa TBT Nguyễn Phú Trọng của chúng ta và TBT Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc trong chuyến thăm Trung Quốc gần đây. 2 lần trả lời, đối đáp thật hay, thật dứt khoát, vừa khôn khéo vừa khí phách, vừa nhu vừa cương của TBT Nguyễn Phú Trọng được thuật lại đã làm khán giả vỗ tay ầm ầm mấy lần, làm tướng Tuấn phải tạm dừng chờ hết tràng vỗ tay rồi mới kể tiếp được.

Khi nghe tướng Tuấn thuật lại đối đáp giữa TBT Nguyễn Phú Trọng và TBT Hồ Cẩm Đào, vốn nghiện lịch sử từ nhỏ nên mình liên tưởng ngay đến các đối đáp đầy hùng khí giữa Lê Đại Hành với sứ Tống, hay Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với vua Tàu, và các giai thoại đối đáp Việt - Hoa lưu truyền trong lịch sử. Có thể nói TBT Nguyễn Phú Trọng đã không làm mất mặt, tổn hại quốc thể Việt Nam.

Bài nói chuyện của tướng Nguyễn Thanh Tuấn giản dị, dễ gần, thân thiện, không ba hoa, không sách vở, nói thật nói thẳng và nói trúng vấn đề, nói đúng vào những trọng tâm trọng điểm mà đồng bào và kiều bào cần nghe, muốn nghe. Với một nội dung đầy đủ, chính xác và một phong cách đĩnh đạc, đầy khí phách kiêu hùng Việt Nam, đầy hào khí và tình tự dân tộc. Đó là bài nói chuyện thành công nhất, gây tiếng vang nhất, ấn tượng nhất trong Hội nghị Người Việt Nam ở Nước ngoài lần II.